Chủ đề

Nhiễm trùng niệu
05-02-2009  05:27:44 GMT +7
NHIỄM TRÙNG NIỆU
PGS TS BS Phạm Văn Bùi

 

Nhiễm trùng niệu là một trong những hội chứng mà các bác sĩ thực hành thường gặp nhất. Nó có thể là nguyên nhân tổn thương thận hệ tiết niệu và dần dần đưa đến suy thận mãn. Nhiễm trùng niệu lại luôn luôn có khuynh hướng tái phát nên cần hiểu rõ các cơ chế gây bệnh để có một chiến lược trị liệu nghiêm ngặt và theo dõi bệnh nhân lâu dài.
I. ÐỊNH NGHĨA VÀ PHÂN LOẠI

Nhiễm khuẩn niệu (Bactériurie - Bacteriuria) là có sự hiện diện của vi khuẩn trong nước tiểu. Gọi là nhiễm trùng niệu (Infection urinaire) khi có 105 hay hơn chủng vi khuẩn trong 1ml nước tiểu sau khi cấy nước tiểu vừa mới lấy từ bọng đái (nước tiểu này đã phải lưu trong Bọng đái ít nhất là 3 giờ) và để có ý nghĩa, nước tiểu phải chứa cùng một loại vi khuẩn. Nếu nước tiểu được lấy qua chọc dò bọng đái trên xương mu thì sự hiện diện với số lượng nào của vi khuẩn cũng có thể xem như có ý nghĩa bệnh lý.
Nhiễm khuẩn niệu không triệu chứng (Bactériurie asymtomatique) là nhiễm trùng niệu được phát hiện tình cờ khi khám sức khoẻ tổng quát, điều tra dịch tễ học, lúc đi khám thai hoặc khi đến khám vì một bệnh lý khác và bệnh nhân không có những triệu chứng lâm sàng niệu khoa.
Viêm bọng đái (Cystite): là nhiễm trùng bọng đái thường gặp ở phái nữ, thường do nhiễm từ vùng quanh niệu đạo với các triệu chứng điển hình như: đau tự nhiên hạ vị và tăng lên khi đi tiểu, tiểu nhiều lần, tiểu khó, đau buốt, đôi khi tiểu không kiểm soát hoặc tiểu máu cuối dòng, nước tiểu đục, có mủ. Nếu đau lan lên bụng hoặc hai vùng hông khi đi tiểu thì có thể bị trào ngược dòng bọng đái - niệu quản. Không bao giờ quên thăm khám trực tràng hay âm đạo lúc khám bệnh và đừng quên rằng viêm bọng đái thông thường có thể là biểu hiện của bướu bọng đái hoặc lao hệ niệu.
Ðiều này có nghĩa là khi khám một bệnh nhân bị viêm bọng đái cần thăm khám toàn hệ niệu và các cơ quan lân cận như: tử cung, âm đạo, trực tràng...
Viêm bồn thận - thận cấp (VBTTC - Pyélonéphite aigue) là nhiễm trùng niệu cấp tính có tổn thương thận (bồn thận, mô kẽ) với đặc điểm lâm sàng là có sự hiện diện của các dấu hiệu nhiễm trùng toàn thân. Bệnh cảnh này có thể là biến chứng của viêm bồn thận - thận mãn, uống ít nước, thai kỳ, nằm liệt giường hay của một nhiễm khuẩn niệu không triệu chứng.
Viêm bồn thận - thận mãn là viêm bồn thận và mô kẽ sau những giai đoạn nhiễm trùng niệu tái phát nhiều lần hay nhiễm trùng niệu mãn tính với xơ hóa mô kẽ, bồn thận và tiểu ống thận. Ngoài nhiễm trùng, nhiều bệnh lý khác có thể gây tổn thương mô kẽ như: bế tắc đường tiểu, miễn nhiễm, thuốc, tăng Calci máu, huyết học, xạ trị...
Nhiễm trùng niệu tái phát (Infection urinaire à rechute) là nhiễm trùng niệu tái phát do cùng một loại vi khuẩn.
Nhiễm trùng niệu tái nhiễm (Intection urinaire par réinfetion) là nhiễm trùng tái phát do các chủng vi khuẩn khác nhau.
Nhiễm trùng niệu thấp (dưới) (Infection urinaire basse) là nhiễm khuẩn niệu có ý nghĩa, không sốt, UIV bình thường. Ðó là nhiễm trùng nước tiểu trong bọng đái.
Nhiễm trùng niệu trên: là sự hiện diện của các vi khuẩn trong nước tiểu trên bọng đái tức là ở ngay bồn thận. Trong phần lớn các trường hợp, nhiễm trùng này phối hợp với tổn thương nhu mô thận và là biến chứng của những bất thường bẩm sinh hay bế tắc đường xuất tiết.
II. DỊCH TỄ HỌC (Pháp)
20% phụ nữ có hay đã có một hoặc nhiều thời kỳ nhiễm trùng niệu có triệu chứng.

Bên cạnh các nhiễm trùng niệu có triệu chứng, có các nhiễm trùng niệu không triệu chứng mà xuất độ gia tăng theo tuổi.

Ở trẻ em 2-3% bé gái và 1% bé trai có nhiễm trùng niệu và ở con nít nhiễm trùng niệu nổi bật ở con trai và thường là biến chứng của bất thường bẩm sinh hệ niệu. Nơi người lớn tuổi, nhiễm trùng niệu gia tăng theo tuổi với xuất độ bằng nhau ở cả hai phái.

Trong các nhiễm trùng xảy ra trong bệnh viện (Infections nosocomiales) thì nhiễm trùng niệu đứng hàng đầu và là một trong những nguyên nhân chính của nhiễm trùng huyết do G(-).

Viêm bồn thận - thận mãn là nguyên nhân thường gặp nhất của viêm mô kẽ thận mãn tính và chiếm từ 10-20% các trường hợp suy thận mãn.

III. SINH LÝ BỆNH HỌC
A. Bằng cách nào nước tiểu trong bọng đái và trên bọng đái bị nhiễm trùng. Bình thường nước tiểu hoàn toàn vô trùng.
1. Bằng đường ngược dòng:
Ðây là cơ chế được thiết lập rõ nhất, nhiễm trùng niệu có thể xảy ra tự nhiên hay do gây ra:
a/- Tự nhiên:
 Trường hợp này các vi khuẩn đi ngược từ miệng niệu đạo vào bọng đái. Ðoạn cuối niệu đạo không bao giờ vô trùng và luôn luôn bị xâm nhập bởi nhiều chủng loại vi khuẩn như Streptocoque, Staphylocoque. Cần biết rằng bình thường không bao giờ có trực trùng G(-) của hệ tiêu hóa nằm ở đoạn tận cùng này của niệu đạo.
Ở phái nữ, sự thường có của nhiễm trùng niệu có thể được giải thích bằng đặc điểm cơ thể học của niệu đạo: ngắn, rộng, gần vùng quanh hậu môn: miệng niệu đạo, da quanh niệu đạo thường bị xâm nhập bởi các chủng có nguồn gốc tiêu hóa nhất là loại Colibacilles. Trong lúc đi tiểu dòng nước tiểu dọc theo thành niệu đạo, tạo thuận lợi cho các vi khuẩn di trú vào bọng đái, Mặt khác, niệu đạo phái nữ có thể bị những tổn thương kín đáo khi giao hợp cũng tạo thuận lợi cho sự xâm nhập của vi khuẩn, vì vậy phụ nữ thường có giai đoạn nhiễm trùng niệu đầu tiên (Viêm Bọng đái) sau những lần giao hợp đầu tiên.
Ở phái nam: xuất độ nhiễm trùng niệu ít hơn có thể được giải thích là do niệu đạo ít rộng hơn, dài hơn và xa vùng quanh hậu môn hơn. Ngoài ra những chất tiết từ tiền lập tuyến có hoạt động kháng khuẩn.
Hai cách nhiễm trùng niệu cần phân biệt:
Nhiễm trùng niệu xảy ra trong các viêm tiền lập tuyến cấp cũng xảy ra theo đường ngược dòng.
Trong lúc nhiễm trùng niệu thấp thường có trào ngược dòng bọng đái, niệu quản tạm thời và vì vậy có thể gây ra nhiễm trùng niệu ở phía trên bọng đái. Cơ chế này giúp giải thích những trường hợp nhiễm trùng đường tiểu trên thứ phát sau viêm vùng tam giác bọng đái. Cần phân biệt hiện tượng trào ngược dòng tạm thời này sẽ biến mất khi nhiễm trùng niệu được chữa khỏi với trào ngược dòng bọng đái - niệu quản thường xuyên do nguyên nhân bẩm sinh. Mặc dầu cách điều trị khác nhau, nhưng cả hai đều có thể gây những hậu quả giống nhau: nhiễm trùng niệu trên phối hợp với những tổn thương nhỏ nhất của đường xuất tiết và/hoặc chủ mô thận đều chứa đựng những nguy cơ trầm trọng. Vì vậy, không bao giờ được coi thường nhiễm trùng niệu và phải điều trị một cách có hiệu quả.
b/- Gây ra:những thủ thuật Niệu khoa như nong niệu đạo, soi bọng đái, thông tiểu, là những nguyên nhân chính của nhiễm trùng niệu. Theo thống kê, một thông bọng đái đơn giản gây nhiễm trùng trong hơn 3% các trường hợp, nếu ống thông đặt lưu lại quá 48 giờ mà không chăm sóc cẩn thận gây nhiễm trùng niệu trong 100% các trường hợp.
Sự thâm nhập của vi khuẩn hoặc do lúc thông đã đưa trực tiếp vi khuẩn từ niệu đạo vào Bọng đái hoặc do vi khuẩn di chuyển dọc lòng ống thông hay quanh ống thông vào bọng đái. Ðặt thông tiểu cần phải xem như là một tác động ngoại khoa, các thiếu sót về vô trùng có thể gây ra những sai lầm trầm trọng.
2. Bằng đường máu:
Sự thâm nhập của vi khuẩn từ máu vào nước tiểu hiếm hơn, đầu tiên là sự viêm nhiễm của chủ mô thận rồi thì nước tiểu bị nhiễm trùng. Nhiễm trùng này thường gặp hơn trong những bệnh mãn tính, người giảm miễn dịch hay đang điều trị bằng các thuốc giảm miễn dịch: người ta nghĩ đến đường nhiễm này khi chúng tìm thấy thuộc nhóm cầu trùng vàng, Samonella hay Candida.... không được lầm lẫn giữa nhiễm trùng niệu qua đường này với các trường hợp nhiễm trùng huyết mà điểm khởi phát là từ hệ niệu. Trong đó tồn thương chủ mô thận thứ phát sau nhiễm trùng niệu.
3. Các đường khác:
Các đường xâm nhập khác của vi khuẩn vào nước tiểu còn bàn cãi. Hệ bạch dịch có thể có vai trò. Một số tác giả đưa ra giả thuyết có sự xâm nhập của vi khuẩn từ ruột già do có sự tương quan cơ thể học chặt chẽ giữa đường xuất tiết niệu và đại tràng. Trong thực tế, các bệnh nhân bị nhiễm trùng niệu tái phát cũng cần được điều hòa về hệ ruột, tuy nhiên vai trò của các yếu tố này chưa rõ rệt.
B. Làm thế nào nhiễm trùng Niệu phát triển được.
  • Người ta đã chứng minh rằng, một số lượng lớn vi khuẩn được đưa vào bọng đái sẽ biến mất một cách nhanh chóng. Ði tiểu đã giúp tống xuất vi khuẩn khỏi bọng đái và có lẽ lớp thượng bì của hệ niệu có đặc tính kháng khuẩn.
  • Nhưng nước tiểu lại là một môi trường cấy tuyệt hảo, trong thực nghiệm, phần lớn vi khuẩn phát triển một cách nhanh chóng trong nước tiểu và số lượng gấp đôi trong vòng 45 phút. Ngược lại, một số vi khuẩn mọc rất khó trong môi trường nước tiểu: Pneumocoque, Gonocoque, Streptocoque Hémolytique nhóm A.
  • Người ta cũng chứng minh rằng, nhiễm trùng niệu phát triển một cách khó khăn nếu thành hệ niệu còn nguyên vẹn.
  • Ðiều căn bản cần biết là độ trầm trọng của nhiễm trùng niệu, số lần tái phát nhiễm trùng tùy thuộc vào sự hiện hữu của các sang thương trên hệ niệu.
  • Ðể giải thích sự phát triển nhiễm trùng niệu, có nhiều yếu tố nhập cuộc.
1. Yếu tố vi khuẩn học:
Phụ nữ bị nhiễm trùng niệu dưới tái phát thường có những ổ vi khuẩn (chủ yếu là Colibacilles) ở vùng tiền đình âm đạo và đaọn cuối niệu đạo, có lẽ do một bất thường về sức đề kháng tại chỗ hay đo độ pH của dịch tiết âm đạo.
Các trực khuẩn G(-) nhờ có các mao trạng nên dễ bám vào các niêm mạc đường tiểu. Và các lý do chưa rõ rệt độ nhạy cảm của từng người với nhiễm trùng tùy thuộc vào sự bám dính này.
2. Yếu tố miễn nhiễm:có tính chất lý thuyết: có sự khiếm khuyết trong sự bài tiết kháng thể tại chỗ.
 
3. Yếu tố cơ học:giữ vai trò chính yếu.
Tất cả các rối loạn động lực của hệ niệu đều giúp cho nhiễm trùng niệu phát triển:
  • Sự ứ đọng nước tiểu trong bọng đái, nơi những người uống nước không đầy đủ đều giữ vai trò trong sự phát triển nhiễm trùng niệu, vì vậy điều trị nhiễm trùng niệu cần khuyên bệnh nhân uống nhiều nước.
  • Những yếu tố thuận lợi cho sự phát triển nhiễm trùng niệu:
 
a/- Cơ địa đặc biệt:
Phụ nữ có thai.

Tiểu đường.

Giảm miễn dịch.

Người già.
 
b/- Bế tắc đường tiểu:
Bất thường bẩm sinh.

Sạn.

Bế tắc niệu quản hoàn toàn hay từng phần.

c/- Trào ngược dòng bọng đái - niệu quản.
d/- Tồn đọng bọng đái sau khi đi tiểu:
Bọng đái hỗn loạn TK.

Hẹp niệu đạo hay van niệu đạo.

Phì đại tiền lập tuyến.

e/- Dụng cụ:
Thông bọng đái.

Thông lưu tại chỗ.

Nong niệu đạo.

Soi bọng đái.

Chụp niệu quản- bể thận ngược dòng.

Ðặt thông lên niệu quản

Nhiều yếu tố thuận lợi đi kèm với nhau.

 Với phụ nữ có thai: nhu động niệu quản bị giảm và đường bài niệu bị chèn ép.
 Với người già: các hỗn loạn TK dưới lâm sàng, phì đại tiền lập tuyến ở phái nam, sa bọng đái ở phái nữ, nằm liệt giường phối hợp tạo thuận lợi cho nhiễm trùng niệu.
 Với trẻ em: trào ngược dòng bọng đái - niệu quản có thể phối hợp với những bất thường ở nhú thận giải thích các tổn thương chủ mô thận phối hợp.
 
C. Bằng cách nào nhiễm trùng phát triển trong những chủ mô lân cận.
 Với chủ mô thận: bệnh cảnh thường là viêm bồn thận-thận. Bằng đường ngược chiều. Qua các nhú thận, nhiễm trùng lan truyền đến thận. tủy thận bị tổn thương trước tiên là do đặc điểm cơ thể học cũng như các yếu tố sinh hóa, tế bào khiến vùng tủy thuận lợi cho nhiễm trùng lan tỏa hơn vùng vỏ: nồng độ cao Ammoniaque ở vùng tủy ức chế hoạt động của bổ thể, yếu tố giữ vai trò chính trong sự phá huỷ vi khuẩn. Sự thực bào của vùng tủy cũng yếu hơn so với vùng vỏ do thiếu 02 tương đối đồng thời độ thẩm thấu cao của dịch mô kẽ vùng tủy cũng ít thuận lợi cho sự di chuyển của các bạch cầu. Song về thực nghiệm rất khó gây viêm bồn thận - thận cấp nếu không có tổn thương chủ mô hay đường xuất tiết phối hợp. Vì vậy mọi cản trở đối với dòng chảy bình thường của nước tiểu hay mọi sang thương sẵn có của thận đều gia tăng một cách đáng kể sự nhạy cảm của thận đối với nhiễm trùng.
 
Với chủ mô Tiền liệt tuyến: nhiễm trùng có thể tự nhiên vì các lý do chưa được biết rõ hoặc thứ phát sau thông bọng đái và nhiễm trùng niệu lại thứ phát sau nhiễm trùng tiền liệt tuyến: Tiền liệt tuyến là chỗ trú ẩn của vi khuẩn mà các kháng sinh khó đến được, pH acid của môi trường tiền liệt tuyến cũng ngăn cản độ hòa tan của hầu hết các loại thuốc.
D. Bằng cách nào nhiễm trùng niệu có thể gây biến chứng nhiễm trùng niệu. Mọi nhiễm trùng chủ mô (tủy thận, tiền liệt tuyến,) tạo sự tiếp xúc giữa hệ tuần hoàn và các vi khuẩn. Và mọi nhiễm trùng trên các sang thương của hệ niệu đều chứa đựng các nguy cơ tương tự.
 
III. CHẨN ÐOÁN LÂM SÀNG NHIỄM TRÙNG NIỆU:
1. Thể điển hình (có triệu chứng): các triệu chứng lâm sàng rất nhiều và thường không cho phép chẩn đoán nhiễm trùng niệu. Chẩn đoán là vi khuẩn học.
 a/- Dấu hiệu tại chỗ, không có dấu hiệu toàn thân. Có một số dấu hiệu điển hình và giúp hướng chẩn đoán lập tức.
 Chúng có thể riêng rẽ, theo độ xuất hiện gồm: viêm bọng đái, tiểu đục, tiểu máu đại thể cuối dòng, tiểu khó. Ðôi khi có các triệu chứng kín đáo hơn như: nước tiểu hơi hôi, tiểu đệm, khó chịu vùng hạ vị có thể kèm cảm giác co thắt bọng đái.
 
b/- Dấu hiệu tại chỗ với dấu hiệu toàn thân:
 Sốt, lạnh run là những triệu chứng chính khi nhiễm trùng tiểu lan đến chủ mô. Chúng có thể riêng lẻ.
Trước mọi trường hợp sốt không giải thích được nguyên nhân, nhất là ở trẻ em, cần tìm kiếm nhiễm trùng niệu.
 Trong nhiễm trùng huyết G(-), không có nguyên nhân, dù không có triệu chứng niệu, cần tìm điểm khởi phát từ đường tiểu. Cần thực hiện một cách hệ thống sinh hóa, tế bào, vi khuẩn niệu.
Hai trường hợp đặc biệt cần biết.
VIÊM BỒN THẬN - THẬN CẤP:thường khởi đầu bằng những triệu chứng kín đáo: viêm bọng đái, khó chịu khi đi tiểu. Ðôi khi, lúc hỏi bệnh, người ta tìm thấy những dấu hiệu đặc trưng của cơn đau do trào ngược dòng: khi đi tiểu, cơn đau tăng lên và lan dọc lên một hay hai hố chậu đến tận vùng hông, cơn đau giảm bớt lúc chấm dứt đi tiểu. Rồi thì vài giờ hoặc 24-48 giờ sau xuất hiện sốt 38-390c, lạnh run và đau hông lưng. Các triệu chứng lâm sàng điển hình của viêm bồn thận - thận cấp phối hợp với thăm khám lâm sàng giúp chẩn đoán tổn thương chủ mô thận. Sờ nắn hai bên hông lưng, người ta tìm thấy một hay hai thận lớn và đau. Viêm bồn thận - thận cấp thường ở một bên nhưng có thể hai bên. Một mảng cứng vùng hông hay một phản ứng tại đây là các dấu hiệu của nhiễm trùng lan tỏa đến vỏ thận (viêm thận mủ, áp xe thận, hay nhọt mủ quanh thận).
 
VIÊM TIỀN LIỆT TUYẾN CẤP: được gợi đến khi một người lớn nhất là người đang mang thông tiểu hay sau một thủ thuật niệu khoa, xuất hiện sốt đột ngột 39-400C với lạnh run, các dấu hiệu đường tiểu có khi rất kín đáo. Khi thăm khám cần tìm tiểu khó, nóng khi đi tiểu hoặc đau vùng tầng sinh môn cuối lúc đi tiểu. Tiểu máu đại thể đầu dòng có thể là triệu chứng đầu tiên. Chẩn đoám viêm tiền liệt tuyến cấp dựa vào thăm khám trực tràng, trong các trường hợp điển hình tiền liệt tuyến tăng kích thước và rất đau.
Trong cả hai trường hợp này, cần thực hiện cùng lúc xét nghiệm vi khuẩn học nước tiểu với cấy máu một hay nhiều lần.
2. Thể không điển hình:
  • Ðược mô tả trong các khảo sát dịch tễ học thực hiện nhất là ở tuổi học đường. Nơi bé gái tiên lượng lâu dài tương đối lành tính.
  • Ngược lại, nếu không được điều trị tiên lượng có thể rất trầm trọng nếu nhiễm trùng được phát hiện ngoài lúc viêm bồn thận cấp hay viêm tiền liệt tuyến cấp hay nơi những người có nguy cơ cao hoặc có những yếu tố thuận lợi. Vì vậy, cần theo dõi vi khuẩn học một cách hệ thống để không bỏ sót những thể không triệu chứng.
3. Khám lâm sàng gồm:
  • Hỏi chính xác bệnh sử niệu khoa của bệnh nhân: thời điểm xuất hiện các triệu chứng lúc trước, biểu hiện lâm sàng, hiện diện các cơn sốt cấp tính, sự phối hợp các yếu tố thuận lợi, kết quả các xét nghiệm đã thực hiện, các điều trị...
  • Khám thực thể tập trung ba điểm:
 Thận, đường tiểu: sờ nắn.
 Tiền liễt tuyến, niệu đạo: thăm trực tràng.
  Bộ phận sinh dục nữ.
 
IV. CÁC THĂM DÒ CẬN LÂM SÀNG CẦN THIẾT (NGOÀI XÉT NGHIỆM)
Chẩn đoán nhiễm trùng niệu đòi hỏi những thăm dò sâu xa hơn tùy thuộc vào các dữ kiện xuất hiện nhiễm trùng niệu.
A. Theo tuổi và phái:
1. Ở trẻ em:ở những bé nhỏ, dù phái nào và ở trẻ trai tuổi học đường, nhiễm trùng niệu phải được xem như là biến chứng bất thường của hệ niệu và phải tìm kiếm nó ngay đợt đầu nhiễm trùng đầu tiên: thăm dò đòi hỏi là UIV với những phim chụp bọng đái trong lúc và sau khi đi tiểu để khảo sát độ mở cổ bọng đái, độ dãn niệu đạo hay lượng nước tiểu tồn đọng sau khi đi tiểu, cũng như hiện tượng ngược dòng bọng đái - niệu quản bẩm sinh.
Ngoài UIV, và nhất là khi có dấu hiệu lâm sàng của trào ngược bọng đái - niệu quản hay thấy những vùng teo của chủ mô thận trên UIV, cần chụp thêm bọng đái ngược chiều, thăm dò này chỉ làm ngoài giai đoạn nhiễm trùng niệu.
 
2. Ở đàn ông:nhiễm trùng tiểu ngay lần đầu cũng cần tìm kiếm các bất thường hay bế tắc đường tiểu. UIV rất cần thiết, UCR được chỉ định nếu nghi có bế tắc vùng cổ bọng đái - tiền liệt tuyến.
3. Ở phái nữ:các bước thăm dò hoàn toàn khác hẳn vì sự thường có của nhiễm trùng niệu thấp. Nếu đó là một viêm bọng đái có kèm theo hay không tiểu ra máu, không sốt, không đau hông lưng hai bên thì chặng đầu tiên là điều trị một cách có hiệu quả và theo dõi sau điều trị. UIV chỉ cần thiết khi có dấu hiệu toàn thân hay những triệu chứng lâm sàng gợi ý bế tắc đường tiểu như cơn đau bão thận hoặc chỉ thực hiện nếu nhiễm trùng tiểu tái phát gần nhau hoặc do cùng một chủng gây bệnh.
Sau 50 tuổi ở cả nam lẫn nữ, trước những nhiễm trùng niệu tái phát với UIV bình thường, cần phải soi bọng đái để loại trừ bướu bọng đái.
 
B. Theo hội chứng lâm sàng của nhiễm trùng niệu:
1. Viêm bồn thận - thận cấp:
  • Trong trường hợp này, cần xác định xem có phải viêm bồn thận -thận cấp là biến chứng của bế tắc đường tiểu hay không. Vì vậy, song song với điều trị nhiễm trùng bằng kháng sinh cần phải loại một bế tắc với nhiễm trùng phía trên nó (thượng nguồn). Thăm dò đòi hỏi đầu tiên là siêu âm và kèm theo là UIV. Nếu phát hiện bế tắc với dãn nở đài bể thận thì cần can thiệp ngoại khoa khẩn cấp để loại bỏ nguyên nhân bế tắc hoặc chuyển lưu (Dérivation) ổ mủ, nước tiểu nhiễm trùng.
2. Viêm tiền liệt tuyến cấp:
  • Nơi đàn ông các thủ thuật ngoại khoa liên quan đến vùng cổ bọng đái-niệu đạo hoặc làm massage tiền liệt tuyến để lấy dịch tìm vi khuẩn đều chống chỉ định trong giai đoạn viêm tiền liệt tuyến cấp, vì những thủ thuật này có thể gây nhiễm trùng huyết G(-). Nếu có bí tiểu thì phải chuyển lưu qua đường trên xương mu. UIV và những phim chụp bọng đái - niệu đạo lúc đang đi tiểu chỉ thực hiện ở giai đọan hai.
 
V. NHIỄM TRÙNG ÐƯỜNG TIỂU THẤP
  • Trước mọi nhiễm trùng niệu, vấn đề đặt ra là cần xác định xem nhiễm trùng chỉ khu trú ở bọng đái (thấp) hay có cả ở đường tiểu trên (cao) vì cách điều trị và tiên lượng lâu dài hoàn toàn khác nhau.
A. Trong một số trường hợp vấn đề tương đối đơn giản, để giải quyết.
  • Nhiễm trùng đường tiểu dưới thường gặp nhất ở phái nữ và thường có khuynh hướng tái phát.
  • Nhiễm trùng đường tiểu trên dễ nghi ngờ nếu có viêm bồn thận-thận cấp, trào ngược dòng bọng đái -niệu quản đã biết, bế tắc đường tiểu với cơn đau bão thận. Sốt là dấu hiệu chính của nhiễm trùng đường tiểu trên.
 
B. Trong một số trường hợp khác vấn đề khó khăn hơn: cần phải thu lượm nhiều dữ kiện để chẩn đoán nhiễm trùng đường tiểu trên.
 Vi khuẩn học: cho thấy bị tái phát.
 Sinh bệnh học: cho thấy có những yếu tố thuận lợi cho  nhiễm trùng đường tiểu trên.
 Xạ ký (X quang): giúp phát hiện các bất thường đường tiểu hay hình ảnh của bệnh viêm mô kẽ thận.
 Miễn nhiễm học: tìm thấy các kháng thể lưu thông chuyên biệt chống lại các kháng nguyên vỏ vi khuẩn. Nhờ phương pháp miễn dịch huỳnh quang ta thấy kháng thể bao phủ vi khuẩn.
 Sinh hóa hay chức năng thận: tiểu ra enzymes, đạm niệu, hiện diện của b2 microglobuline trong nước tiểu, mất khả năng đông đặc nước tiểu của thận.
 Niệu học: thử nước tiểu lấy trực tiếp từ niệu quản hay bể thận (phương pháp Fairley) ít làm vì rất phức tạp và nguy hiểm.
 
VI. CÁC TRƯỜNG HỢP ÐẶC BIỆT
 ]Có một số trường hợp nhiễm trùng niệu xảy ra trên những cơ địa đặc biệt hoặc gặp trong một số trường hợp đặc biệt.
1.Các bệnh nhân được điều trị bằng các thuốc giảm miễn dịch thường có nhiễm trùng niệu không triệu chứng và không có bạch cầu trong nước tiểu.     
2.     Tiểu đường: không dễ bị nhiễm trùng niệu hơn người bình thường nhưng khi có nhiễm trùng niệu, thì thường trầm trọng hơn vì thường có tổn thương chủ mô thận (dễ bị hoại tử nhú thận hơn vì thường có bệnh vi mạch máu thận).
3.     Phụ nữ có thai: dễ bị nhiễm trùng niệu hơn phụ nữ không thai, điều trị thường khó, phức tạp hơn và dễ bị biến chứng nặng ở đường tiểu trên.
4.Người lớn tuổi: những người lón tuổi nằm liệt giường thường dễ bị nhiễm trùng niệu và thường không có triệu chứng, nếu có các dấu hiệu thường kín đáo và không dễ nhận ra.     
Nó thường trầm trọng hơn vì dễ bị nhiễm trùng huyết G(-) đặc biệt nếu phải có những thủ thuật niệu khoa như nong đường niệu hay đặt thông tiểu.
 
Nhiễm trùng niệu trong những trường hợp đặc biệt:
  • Bọng đái hỗn loạn thần kinh: nhiễm trùng niệu thường dễ xảy ra sau khi đặt thông tiểu (để chuyển lưu thông tiểu).
  • Thông tiểu cũng rất dễ gây biến chứng nhiễm trùng niệu.
 Bên cạnh các đường giúp đưa vi khuẩn vào bọng đái, cần chú ý đến sự lan truyền vi khuẩn từ bệnh nhân này sang bệnh nhân khác do bàn tay của nhân viên y tế. Ðiều này giải thích tại sao, trong điều kiện lý tưởng, nên cách ly các bệnh nhân đang mang thông tiểu với nhau.
VII. BIẾN CHỨNG HAY NGUY CƠ NHIỄM TRÙNG NIỆU
  • Nhiễm trùng đường tiểu dưới nơi phụ nữ không có bất thường hệ niệu hay chủ mô thận, luôn luôn lành tính. Trái lại nhiễm trùng niệu xảy ra nơi những bệnh nhân có sẵn những yếu tố thuận lợi trước đó, có thể tạo ra một mối nguy hiểm thật sự.
  • Các nguy cơ và biến chứng của nhiễm trùng niệu rất nhiều, có thể là:
1.Tồn tại lâu dài của nhiễm trùng.     
2.Nhiễm trùng huyết G(-): tất cả các nhiễm trùng niệu do G(-) đều có thể gây biến chứng nhiễm trùng huyết một cách đột ngột.     
3.Phá huỷ chủ mô thận:     
 
a/- Phá huỷ cấp tính có thể đưa đến thận mủ, thường do nhiễm trùng niệuvới bế tắc đường tiểu hoàn toàn.
b/- Hoại tử nhú thận: xảy ra trong các nhiễm trùng niệu ở người tiểu đường, sau khi ngộ độc mãn tính các thuốc giảm đau hay trên bế tắc đường tiểu. Bệnh cảnh lâm sàng gồm: sốt 39-400C rồi lạnh run, đau hông lưng hai bên lan ra trước bụng (với các cơn đau bão thận thực sự) và tiểu máu đại thể. Trong lúc đi tiểu, người ta có thể nhận ra những mảnh nâu đen giống như cục máu đông, nhưng xét nghiệm vi thể cho thấy đó là những miếng nhú thận. Cấy máu thường (+).
 Ðiều trị nhiễm trùng niệu rất khẩn cấp. Tiên lượng rất trầm trọng. Mức độ tổn thương tùy thuộc vào mức độ suy thận còn lại sau khi đã chữa khỏi cơn cấp tính.
c/- Phá huỷ từ từ: đó là viêm bồn thận - thận mãn đặc biệt cần phải nghĩ đến sau khi bị viêm bồn thận - thận cấp do biến chứng của một bất thường hệ niệu hay một tổn thương chủ mô thận sẵn có.
d/- Sinh sỏi.
 
4.        Viêm Tiền liệt tuyến và các biến chứng:
  • Tại chỗ có thể tiến đến áp xe tiền liệt tuyến cần phải dẫn lưu hoặc gây viêm tinh hoàn mào tinh cấp.
  • Có thể là điểm khởi phát của nhiễm trùng huyết G(-).
  • Tiến triển có thể tái phát hay viêm mãn tính, khảo sát nước tiểu thường không tìm thấy vi khuẩn, ngoài giai đoạn cấp tính, ta có thể thử nước tiểu theo phương pháp STAMEY. Một số tác giả khuyên cấy tinh dịch.
 
VIII. ÐIỀU TRỊ NHIỄM TRÙNG NIỆU
A. Mục đích điều trị:
 Ðiều trị nhiễm trùng niệu phải giải quyết ba mục đích:
1.Làm biến mất các triệu chứng lâm sàng. Phần lớn các triệu chứng thận, niệu quản bọng đái liên quan với nhiễm trùng và biến mất với chúng khi điều trị tích cực. Ngược lại,? cần nhớ rằng, điều trị chống nhiễm trùng hoàn toàn vô ích trong trường hợp đau bọng đái (Cystalgie) không có nhiễm trùng. Lao hệ niệu và những bệnh bọng đái cần phải phân biệt vì nó có thể do nguyên nhân nội tiết, biến dưỡng hay tâm thần.     
2.Ngăn cản sự bành trướng của vi khuẩn đến chủ mô thận hoặc phải chữa khỏi nó nếu có tổn thương chủ mô. Ðể điều trị tận gốc những ổ nhiễm trùng trong chủ mô thận buộc phải lựa chọn những kháng sinh thâm nhập tốt vào chủ mô thận và bài tiết tốt qua đường thận. Do có tổn thương thận, cần phải kéo dài thời gian điều trị cho tới khi đã biến mất các triệu chứng lâm sàng cũng như không còn vi khuẩn khi cấy nước tiểu. Nếu có suy thận, dùng kháng sinh phải theo những qui tắc đặc biệt.     
3.Không còn vi khuẩn trong nước tiểu: đây là tiêu chuẩn có giá trị về hiệu quả điều trị. Cần biết rằng nồng độ cao của kháng sinh trong nước tiểu có thể ức chế một cách nhanh chóng sự phát triển của vi khuẩn và có tác dụng diệt khuẩn tại đây, trong khi nó chỉ tác dụng trụ khuẩn (bacteriostatique) hay không có tác dụng gì cả đối với những ổ nhiễm trùng chủ mô.     
 
B. Các nguyên tắc điều trị:
Luôn luôn dùng kháng sinh với liều lượng thông thường, kháng sinh phải có nồng độ đủ trong nước tiểu và phải khuếch tán vào chủ mô tốt khi được dùng để điều trị các nhiễm trùng niệu phức tạp như viêm bồn thận - thận cấp, nhiễm trùng huyết do G(-).
Các thuốc kháng khuẩn đường tiểu (Antiseptiques urinaires) không phải là những kháng sinh. Các chất này giúp làm dịu các triệu chứng cơ năng, ức chế sự phát triển của các vi khuẩn trong nước tiểu, nhưng không chữa khỏi nhiễm trùng niệu vì vậy không thể dùng chúng để điều trị nhiễm trùng niệu nhất là sẽ rất nguy hiểm khi dùng chúng để điều trị nhiễm trùng niệu phức tạp.
Các kháng sinh được cho dựa trên kháng sinh đồ.Trường hợp phải sử dụng kháng sinh trước khi có kết quả kháng sinh đồ, sự lựa chọn kháng sinh dựa trên kháng phổ (spectre) và tác dụng đối với chủng gây bệnh.
  • Dùng các kháng sinh ít nguy hiểm nhất và rẻ nhất nhưng vẫn có hiệu quả tốt.
  • Các nguyên tắc điều trị kháng sinh giống như trong các trường hợp khác.
 
Ðiều trị các nguyên nhân thuận lợi:
  • Tiểu đường: yếu tố quan trọng làm nặng thêm nhiễm trùng niệu và phải được tìm kiếm một cách hệ thống. Ðường trong nước tiểu giúp cho sự phát triển của các vi khuẩn nhưng quan trọng nhất là bệnh thần kinh do tiểu đường có thể gây bọng đái hỗn loạn thần kinh là nguyên nhân phụ trội thêm cho nhiễm trùng niệu.
  • Sử dụng Corticoides: giúp cho nhiễm trùng niệu lan tỏa. Ðôi khi nó được dùng để phát hiện nhiễm trùng niệu.
  • Hạ Kali máu là nguyên nhân gây viêm mô kẽ và cũng là yếu tố thuận lợi, cần phải tìm kiếm nơi những người dùng nhiều thuốc nhuận trường nhất là ở phụ nữ.
  • Cũng cần phát hiện những trường hợp lạm dụng thuốc giảm đau nhất là Phénacétine.
 
C. Các biện pháp tổng quát phối hợp:
  • Uống nước đầy đủ, nhiều. Ngoài vai trò tống xuất vi khuẩn nhờ tiểu nhiều, nó có tác dụng làm giảm độ thẩm thấu tủy thận là điều kiện tối ưu cho hoạt động của bạch cầu, của bổ thể tại chỗ va ?iúp kháng sinh thâm nhập chủ mô tốt nhất, nhưng cần thận trọng trong các bệnh bế tắc đường tiểu một khi bế tắc chưa được loại trừ.
  • Acid hóa nước tiểu ức chế sự phát triển của vi khuẩn, nên duy trì pH ở 5-6 rất có ích. Như vậy những thuốc sát trùng có tác dụng acid hóa nước tiểu như Mandélamine rất có ích lợi trong trường hợp này. Tuy nhiên, acid hóa nước tiểu nguy hiểm khi có tăng A. Urique máu và nó làm giảm tác dụng của một số kháng sinh như nhóm Aminoglycosides hay Erythromycine (những thuốc này tăng hoạt khi kiểm hóa nước tiểu).
  • Luôn phải quân bình hoạt động của hệ tiêu hóa và những qui tắc vệ sinh thân thể đặc biệt là vùng tầng sinh môn.
 
D. Theo dõi điều trị:
Thông thường, với một điều trị thích hợp và hiệu quả, sự tiệt khuẩn nước tiểu có thể thu lượm được trong vòng 24 giờ.
  • Trong lúc điều trị: kiểm tra nước tiểu được thực hiện vào ngày thứ hai hay thứ ba sau khi bắt đầu điều trị. Không cần thực hiện trong các nhiễm trùng niệu thấp lành tính trừ khi các triệu chứng lâm sàng tồn tại. Kiểm tra nước tiểu luôn luôn phải được thực hiện trong các nhiễm trùng niệu phức tạp.
  • Khi ngưng điều trị: cần kiểm tra nước tiểu vẫn vô khuẩn. Kiểm tra lần 2 vào 10-15 ngày sau điều trị. Theo thống kê, các trường hợp tái phát sớm vào ngày thứ 10 thường là tái phát do cùng một chủng vi khuẩn.
  • Nhiễm trùng huyết hay nhiễm khuẩn huyết có điểm khởi phát từ hệ niệu cần phải được điều trị thích hợp với sự phối hợp của nhiều kháng sinh và với sự yểm trợ của nhiều phương tiện thăm dò vi khuẩn học, tối thiểu phải có cấy nước tiểu và cấy máu trước khi bắt đầu liệu pháp kháng sinh. Ðiều trị kéo dài từ 3 tuần đến 1 tháng và tùy theo tổn thương thận phối hợp, có thể phải điều trị củng cố và cần có sự theo dõi về vi khuẩn học.
  • Viêm bồn thận - thận cấp: Viêm bồn thận - thận cấp không phối hợp với bất thường hay bế tắc niệu, không bị biến chứng nhiễm trùng huyết G(-) có thể được điều trị ngoại trú.
  • Thời gian điều trị trung bình là 15 ngày. Lúc đầu khi chưa có kháng sinh đồ có thể dùng phối hợp kháng sinh bằng đường tiêm: nhóm Aminosides + dẫn xuất của Ampicillines hay Céphalosporines. Khi có kháng sinh đồ, không cần theo chế độ đa hóa trị liệu. Ðơn trị là đủ, lựa chọn loại thích hợp và có tác dụng diệt khuẩn.
  • Các dấu hiệu toàn thân phải biến mất trong vòng 48-72 giờ sau khi bắt đầu điều trị? và vi khuẩn niệu phải biến mất sau 48 giờ.
  • Trong viêm bồn thận-thận cấp, theo dõi vi khuẩn học sau điều trị phải thật gắt gao. Tái phát có thể thấy dưới dạng không triệu chứng.
  • Trong vòng 6 tháng tới một năm khảo sát vi khuẩn, tế bào học phải được thực hiện mỗi tháng để phát hiện thể lâm sàng này.
  • Ðiều trị với kháng khuẩn đường tiểu phải được tiếp tục ba tháng sau đó.
  •  Nhiễm khuẩn niệu không có hay có ít triệu chứng cần điều trị từ 10-15 ngày, bằng các kháng sinh hay kháng khuẩn đuờng tiểu uống và kiểm tra vi khuẩn học sau đó.
  • Nhiễm trùng niệu tái phát ở người trẻ thứ phát do viêm tiền liệt tuyến rất khó điều trị: phải kéo dài suốt trong ba tháng, theo dõi vi khuẩn học trong và ngoài lúc điều trị phải thật gắt gao. Giống như viêm bồn thận-thận cấp, sau điều trị, cần phải khảo sát vi khuẩn học nước tiểu, mỗi tháng hay ba tháng suốt trong một năm. Kháng sinh sử dụng cần có độ khuếch tán vào mô tốt như Bactrim, Erythromycine, Quinolones, Tétra trong nhiễm trùng G(-) cũng có thể sử dụng nhóm Cyclines.
  •  Ðiều trị tái phát phải được tính toán kỹ lưỡng, dựa trên tổn thương, tùy theo tần suất tái phát, người ta có thể quyết định hoặc một kháng khuẩn đường tiểu lâu dài từ 6 tháng đến nhiều năm hoặc chỉ điều trị vào mỗi đợt bùng phát.
 Nhiễm trùng niệu và bế tắc:
Một bế tắc với ứ đọng và nhiễm trùng phía trên là một khẩn cấp. Trong những thể kém trầm trọng hơn, không có dãn nở đài bể thận, không có các dấu hiệu tại chỗ hay toàn thân, điều trị hợp lý duy nhất là loại bỏ hay sửa đổi bế tắc bằng can thiệp ngoại khoa.Vì bế tắc không điều trị sẽ duy trì nhiễm trùng và điều trị kháng sinh cơ hội có thể tạo những chủng kháng thuốc. Chỉ sau khi tái lập lại sự thông thường bình thường của đường tiểu thì điều trị nội khoa mới có ích lợi.
Nhiễm trùng niệu và Cathéters:
Trường hợp nhiễm trùng niệu do biến chứng của thông bọng đái nhưng không có triệu chứng thì không cần điều trị. Thái độ này được giải thích là do sự hiện diện của vật lạ không bao giờ giúp cho nước tiểu tiệt khuẩn. Ðó là một ổ chứa vi khuẩn mà kháng sinh không thể đến được, điều trị mù quáng chỉ làm nảy sinh những chủng kháng thuốc.
   
                 Ðiều trị nhiễm trùng niệu khi đặt thông tại chỗ chỉ hợp lý nếu nhiễm trùng niệu có triệu chứng: nhiễm trùng huyết do G(-), viêm tinh hoàn mào tinh cấp. Nếu theo dõi vi khuẩn học được thực hiện một cách đều đặn sẽ giúp nhận ra vi khuẩn gây bệnh và giúp lập ra hướng điều trị có hiệu quả.
                    Khi thông tiểu đã được lấy đi thì điều trị nhiễm trùng niệu sẽ rất cần thiết.
 Suy thận với nhiễm trùng niệu:
 Nhiễm trùng niệu nơi người suy thận khó điều trị vì hai lý do:
Giảm độ lọc cầu thận sẽ làm giảm nồng độ kháng sinh trong nước tiểu.
Sử dụng kháng sinh phải phù hợp với chức năng thận.
 
E. Ðiều trị dự phòng:
Ðược chỉ định khi:
 Phụ nữ: có 4 lần hay hơn nhiễm trùng niệu mỗi năm.
Nam: cần điều trị dự phòng khi có viêm tiền liệt tuyến tái phát.
Cần nhớ rằng nơi các bệnh nhân này chắc chắn có những chủng kháng thuốc. Ðể tránh sự chọn lọc chủng kháng thuốc, người ta sử dụng luân phiên các chất thuộc các nhóm hóa học khác nhau. Ðiều trị cách quãng dường như là giải pháp tốt nhất: dùng thuốc hai lần/tuần, mỗi lần cách nhau khoảng từ 2-3 ngày. Có thể dùng Bactrim 1v/ngày/2ngày/ tuần hay Pipram 2v/ngày, 2ngày/ tuần.
 
 Ðiều trị dự phòng thường kéo dài 6 tháng và phải theo dõi vi khuẩn học đều đặn.
 
Các biện pháp điều trị dự phòng nơi người có mang những bất thường hệ niệu.
  • 10-20% người chạy thận nhân tạo định kỳ có nguyên nhân gây suy thận mãn là do viêm bồn thận - thận mãn. Như vậy phòng ngừa suy thận mãn nơi những bệnh nhân này tỏ ra rất cần thiết.
  •  Nơi những người có bất thường hệ niệu, cần được can thiệp phẫu thuật càng sớm càng tốt và cần phải tránh nhiễm trùng niệu xảy ra trên những bệnh nhân này vì nó rất dễ đưa đến nhiễm trùng chủ mô thận.
  • Khi những bất thường này gây biến chứng nhiễm trùng niệu cần điều trị một cách hiệu quả và lâu dài. Cần phải theo dõi vi khuẩn học nghiêm ngặt và đều đặn trong nhiều năm liên tục.
 
Hội nghị   |   Chủ đề   |   Đào tạo   |   Hội viên

Trang web được quản lý và điều hành bởi Hội Tiết Niệu - Thận Học Tp. Hồ Chí Minh
Bản quyền © 2009 thuộc về Hội Tiết Niệu - Thận Học Tp. Hồ Chí Minh
Designed by Viet Net Nam Co., Ltd.