Tiểu máu đại thể hay vi thể là một trong những dấu hiệu phổ biến nhất của Ung thư bàng quang( K BQ) cần tầm soát trên toàn bộ hệ tiết niệu. Bộ xét nghiệm (XN) dầy đủ gồm tầm soát đường tiểu trên, soi bàng quang và tế bào học/ nước tiểu (NT). Để tìm được ung thư niệu mạc ở BV chúng tôi có thể phát hiện dưới 10% BN có tiểu máu vi thể và khoảng 30 % các ca tiểu máu đại thể. Khoảng 10 % phát hiện K BQ qua soi BQ và 50 % qua tế bào học /NT, nhưng ở giai đoạn sớm và độ biệt hóa thấp có thể chỉ phát hiện được khoảng dưới 20 %.
Nghiên cứu trong 2 năm, chúng tôi nghiên cứu vai trò của test định lượng NMP22 ( Matritech) và test định tính BTA Stat (Bard) trong việc tầm soát K BQ. Tất cả BN trong nhóm nguy cơ đều được khảo sát đường tiểu trên, soi BQ và tế bào học/ NT. Những ca dương tính trên soi BQ đều được khẳng định lại bằng mô học trên mẫu sinh thiết. tế bào học được ghi nhận dương tính, âm tính hoặc nghi ngờ. trong việc tính toán về độ nhạy và độ đặc hiệu thì những ca nghi ngờ đều coi như âm tính. Giá trị NMP22 dương tính khi kết quả trên 10 U/ml.Test BTA được coi là dương tính theo tiêu chuẩn của nhà sản xuất.
Nghiên cứu 1: Vai trò của NMP22 trong việc tầm soát K BQ:
Nghiên cứu này so sánh việc dùng NMP22 với soi BQ và tế bào học/NT cho nhóm BN có nguy cơ. 330 Bn được đưa vào nghiên cứu trong đó có 18 BN bị K BQ. Giá trị cắt ngang của NMP22 được lấy là 10 U/ml đã phát hiện được tất cả 18 ca với độ nhạy 100%. Ngược lại tế bào học phát hiện được 6 ca với độ nhạy 33%. Giá trị dự đoán âm tính ( Negative predictive value) cho NMP22 là 100% (bảng 1).
Bảng 1: Độ nhạy và độ dặc hiệu của NMP22 và tế bào học.
NMP22> 10.0 U/ml
Tế bào học/ nước tiểu
Số lượng
Đặc tính của test
Độ tin cậy 95%
Đặc tính của test
Độ tin cậy 95%
Nhạy
18
100% (18/18)
82%-100%
33% (6/18)
13%-59%
Đặc hiệu
312
86% (267/312)
82%-90%
100% (312/312)
97%-100%
Giá trị chẩn đoán dương tính
29% (18/63)
18%-41%
100% (6/6)
54%-100%
Giá trị chẩn đoán âm tính
100%(266/266)
99%-100%
96% (321/324)
94%-98%
Đánh giá vì sao độ đặc hiệu thấp đặc trưng bởi tỷ lệ dương tính giả cao (86%) và giá trị chẩn đoán dương tính thấp (29%). Phân tích các dữ liệu và lâm sàng, N=45 ca có khoảng 90% dương tính giả rơi vào 5 nguyên nhân chính sau đây:
Nguyên nhân
Số lượng (%)
Các trường hợp viêm hay nhiễm trùng như viêm bàng quang, viêm tiền liệt tuyến mạn tính, nhiễm trùng tiểu tái phát (hơn 5 BC/ quang trường)
16 (35.5%)
Sỏi thận hay sỏi bàng quang.
10 (22.2%)
Có tiền sử hoặc hiện tại đang có dị vật trong đường tiểu ( bao gồm cả stent NQ JJ hay thông mở thận ra da.
8 (17.7%)
Tạo hình bàng quang bằng ruột.
6 (13.3%)
Đang kèm với ung thư đường niệu ( K tiền liệt tuyến, K thận) có hay không đang điều trị với xạ hoặc hóa trị
5 (11.1%)
Nghiên cứu 2: So sánh NMP22 và BTA Stat trong việc tầm soát và theo dõi BN K BQ
Nghiên cứu trên 199 BN, BTA được khuyến cáo được thực hiện bước 1, trong khi NMP22 yêu cầu mức tối thiểu có tối thiểu 10 mẫu là có thể chạy mẫu mới có hiệu quả kinh tế, nhưng ưu điểm là có giá trị định lượng. Ứng dụng của test định lượng này vào lâm sàng chưa rõ ràng. Mặc dù giá trị định lượng có liên quan đến giai đoạn và độ biệt hóa nhiều, giá trị có khả năng tầm soát ứng dụng tốt trên lâm sàng vẫn còn được nghiên cứu. Nghiên cứu cohort trên BN cho thấy có 4/ BN được phát hiện bằng NMP22 giá trị này giống BTA Stat và hai ca không phát hiện được do giai đoạn sớm Ta và độ biệt hóa 1 và 2 của K BQ.
NMP22 phát hiện phần lớn các BN tái phát 24/28 hơn BTA Stat 19/28 (P=0.414) . Tế bào học phát hiện 9/28 ca ( 32%), chúng tôi thử hạ giá trị NMP22 xuống 6 U/ ml, cũng cho kết quả tương tự trong việc phát hiện và theo dõi sự tái phát của K BQ. về độ nhạy cảm trong lô nghiên cứu của chúng tôi có vẻ NMP22 tốt hơn BTA
So sánh nguyên nhân gây dương tính giả có tỷ lệ gần ngang nhau nhưng gần như với BTA Stat tiểu máu vi thể và đại thể không làm thay đổi giá trị của nó. (BS. Craig.D. Zippe và TS. Ashok Agarwal)